Dù chính quyền một số nước châu Âu có chính sách trợ cấp nhà ở, miễn thuế thu nhập cả đời và cho vay lãi suất thấp, nhiều phụ nữ vẫn chọn không sinh con.

Đảo ngược tình trạng suy giảm tỷ lệ sinh đã trở thành ưu tiên của nhiều chính phủ trên toàn thế giới. Tỷ lệ sinh đã giảm trong nhóm các nước phát triển kể từ những năm 1960. Nhưng sự suy giảm này ảnh hưởng đến châu Âu mạnh hơn và nhanh hơn so với dự đoán của các nhà nhân khẩu học. Dân số châu Âu đã giảm trong đại dịch và trên đà giảm khoảng 40 triệu người vào năm 2050, theo Liên Hợp Quốc.

Giống các nước châu Á như Hàn Quốc và Singapore, các nước châu Âu đã nỗ lực đẩy lùi xu hướng này bằng cách cung cấp nhiều phúc lợi cho các gia đình. Tuy nhiên, mức sinh vẫn giảm.

Hai quốc gia châu Âu đi đầu trong nỗ lực này là Hungary và Na Uy. Cả hai nước đều chi hơn 3% GDP để thúc đẩy tỷ lệ sinh, nhiều hơn ngân sách dành cho quân đội, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).

Nhưng dù có nhiều chương trình ưu đãi, tỷ lệ sinh của hai nước lần lượt là 1,5 và 1,4 con với mỗi phụ nữ, thấp hơn nhiều tỷ lệ 2,1 cần thiết để duy trì ổn định dân số.

Nỗ lực thúc đẩy tỷ lệ sinh đầy thách thức ở châu Âu  第1张

Orsolya Kocsis trong căn nhà ở Budapest, Hungary. Ảnh: WSJ

Hungary nói trong những năm gần đây, ngân sách dành cho các chính sách gia đình đã vượt 5% GDP.

Chương trình trợ cấp nhà ở của Hungary đã giúp gần 250.000 gia đình mua hoặc nâng cấp nhà cửa, theo thống kê chính phủ. Orsolya Kocsis, cư dân 28 tuổi làm trong lĩnh vực nhân sự, biết việc có con sẽ giúp vợ chồng cô mua được căn nhà lớn hơn ở Budapest, nhưng điều đó không đủ khiến cô đổi ý.

"Nếu chúng tôi cam kết sẽ có hai đứa con, chúng tôi có thể mua căn nhà mới ngay ngày mai. Nhưng tôi cảm thấy sai trái khi đưa một đứa bé tới thế giới chỉ để mua nhà", cô nói.

Thúc đẩy sinh nở là một phần quan trọng trong chương trình nghị sự của Thủ tướng Viktor Orban. Ông mô tả có con như nghĩa vụ quốc gia, đồng thời là giải pháp tăng dân số thay thế nhập cư. Tuy nhiên, trợ cấp sinh và nuôi con chỉ dành cho những người đã kết hôn. Những người ly hôn sẽ mất phúc lợi và thậm chí phải hoàn trả số tiền từng được hỗ trợ trước đó.

Dân số Hungary bắt đầu giảm từ những năm 1980 và hiện chưa tới 10 triệu người. Tỷ lệ sinh ở Hungary thậm chí từng giảm xuống 1,25 vào năm 2010 song đã tăng lên 1,6 vào năm 2021, sau khi ông Orban trở lại nắm quyền và thúc đẩy các chính sách hỗ trợ gia đình.

Tuy nhiên, tình hình gần đây đã đình trệ. Tỷ lệ sinh của Hungary giảm hai năm qua. Khoảng 51.500 trẻ em sinh ra ở Hungary từ đầu năm tới tháng 8, giảm 10% so với cùng kỳ năm ngoái.

Anna Nagy, luật sư 35 tuổi, sinh con trai đầu vào tháng 1/2021. Cô nhận được khoản vay ưu đãi 27.300 USD và sẽ chỉ phải trả lại cho tới khi con trai lên 3 tuổi. Nagy đã nghỉ việc trước khi mang thai nhưng vẫn nhận các khoản thanh toán thai sản do chính phủ tài trợ, bằng 70% tiền lương trước đây của cô, trong hai năm đầu tiên và một số tiền nhỏ hơn cho năm thứ ba.

Cô từng nghĩ sẽ sinh thêm 1-2 con, nhưng giờ chỉ muốn nuôi dạy cậu con trai nhỏ. Cô thấy mệt mỏi khi cảm giác phải gánh trên vai trách nhiệm giải quyết thách thức nhân khẩu học của đất nước.

"Giữ cho đất nước tồn tại không phải là nhiệm vụ của những người phụ nữ Hungary chúng tôi", cô nói.

Hungary cũng có chính sách ưu đãi với những gia đình sinh nhiều con hoặc sinh con khi còn trẻ. Năm ngoái, chính phủ tuyên bố chương trình cho vay mà Nagy được nhận sẽ chỉ áp dụng cho phụ nữ dưới 30 tuổi. Các gia đình cam kết có 3 con trở lên có thể nhận được hơn 150.000 USD vay trợ cấp. Ngoài ra, bà mẹ có 4 con trở lên được miễn thuế cá nhân trọn đời, cả bố và mẹ có thêm tối đa 7 ngày nghỉ phép mỗi năm.

Đối với Eszter Gerencser, 37 tuổi, các chương trình ưu đãi của chính phủ không phải là yếu tố quyết định. Cô và chồng luôn muốn có nhiều con và họ đã sinh 4 con, trong khoảng 3-10 tuổi.

Họ nhận được 62.800 USD khoản vay lãi suất thấp thông qua chương trình của chính phủ và 35.500 USD trợ cấp. Họ sử dụng tiền để mua và tu sửa căn nhà ở ngoại ô Budapest. Sau khi cô sinh con thứ tư, chính phủ đã xóa khoản nợ 11.000 USD. Gia đình Gerencser nhận được 40 USD hàng tháng cho mỗi đứa trẻ.

Hầu hết phụ nữ Hungary ở nhà chăm con tới khi 2 tuổi, sau đó các khoản trợ cấp thai sản sẽ cắt giảm. Gia đình nhiều con như Gerencser sẽ được miễn phí tại các nhà trẻ công lập. Tuy nhiên, Gerencser vẫn cho rằng xã hội không hỗ trợ những bà mẹ như cô, bởi sau khi nghỉ thai sản cô gặp nhiều khó khăn khi tìm việc. Các nhà tuyển dụng lo ngại rằng cô sẽ cần nhiều thời gian nghỉ vì việc gia đình.

Nỗ lực thúc đẩy tỷ lệ sinh đầy thách thức ở châu Âu  第2张

Vợ chồng Gina Ekholt cùng con gái ở Na Uy. Ảnh: WSJ

Na Uy nhiều thập kỷ qua khuyến khích sinh nở với chính sách nghỉ phép hào phóng dành cho cha mẹ và các khoản trợ cấp chăm sóc trẻ em. Những người lần đầu làm cha mẹ có thể có gần một năm nghỉ phép hưởng lương hoặc khoảng 14 tháng với mức lương 80%.

Các ông bố được phép nghỉ hơn 3 tháng để chăm sóc con cái, nhằm khuyến khích bình đẳng trong gia đình. Các bà mẹ được phép dành ít nhất một tiếng tại nơi làm việc để cho con bú hoặc hút sữa.

Mục tiêu công khai của chính phủ chưa bao giờ là khuyến nghị phụ nữ sinh thêm con, thay vào đó họ nói muốn giúp phụ nữ dễ dàng cân bằng giữa sự nghiệp và con cái, theo Trude Lappegard, giáo sư nghiên cứu nhân khẩu học tại Đại học Oslo. Những chính sách ưu đãi của Na Uy cũng được áp dụng với cặp đôi chưa kết hôn hoặc đồng giới.

Tuy nhiên, nhiều phụ nữ Na Uy vẫn chọn không sinh con hoặc chỉ có một con. Tỷ lệ phụ nữ 45 tuổi có ít nhất 3 con ở mức 27,5% vào năm ngoái, giảm từ 33% năm 2010. Độ tuổi trung bình của phụ nữ sinh con đầu lòng ở Na Uy năm ngoái tăng lên 30,3 tuổi.

"Thật khó để hiểu tại sao người dân vẫn sinh ít con", Kjersti Toppe, Bộ trưởng Trẻ em và Gia đình Na Uy, nói. Bà cho biết chính phủ đã tăng trợ cấp hàng tháng cho các gia đình và thành lập ủy ban điều tra về suy giảm tỷ lệ sinh, cũng như tìm cách khắc phục.

Giới quan sát cho rằng chi phí nhà ở tăng cao và quá trình gây dựng sự nghiệp lâu dài có thể là nguyên nhân khiến phụ nữ ngại sinh con. Trong khi đó, những người lớn tuổi lần đầu làm mẹ có thể đối mặt những rủi ro như vô sinh hay biến chứng thai kỳ.

Gina Ekholt, 39 tuổi, nói rằng các chính sách của chính phủ đã giúp bù đắp phần lớn chi phí sinh con và giúp cô duy trì công việc cố vấn cấp cao tại tổ chức phi lợi nhuận Save the Children của Na Uy. Cô sinh con gái ở tuổi 34 bằng biện pháp IVF được nhà nước trợ cấp với giá khoảng 1.600 USD. Cô nhận khoản trợ cấp khoảng 160 USD mỗi tháng, gần như giúp trang trải toàn bộ chi phí nhà trẻ 190 USD. Cô muốn có thêm con nhưng không thể vì gặp vấn đề sinh sản.

Ekholt cho biết quan điểm rằng "bạn sẽ rất ích kỷ nếu chỉ có một con" đã tác động rất nhiều tới cô. "Nhưng khó khăn của tôi là không thể sinh thêm con", Ekholt nói.

Trong khi đó, bạn của Ekholt, Ewa Sapieżyńska, nhà văn và nhà khoa học xã hội 44 tuổi, hài lòng khi chỉ có một con trai. "Với tôi, vấn đề không phải là về tiền bạc. Đó chỉ là cách tôi lựa chọn lối sống", cô nói.

Trường hợp của Sapieżyńska cho thấy việc phụ nữ không muốn sinh con là xu thế thay đổi về mặt văn hóa chứ không đơn thuần là vấn đề tài chính.

"Trước đây tôi thường nghĩ tôi còn quá trẻ, tôi phải học xong bằng cử nhân, tôi phải tìm bạn đời. Hiện giờ tôi 28 tuổi, đã kết hôn, có ôtô, có nhà, công việc linh hoạt. Tôi không còn lý do 'bào chữa' hay rào cản nào nữa nhưng vẫn không muốn có con", Nancy Lystad Herz, người Na Uy, nói.

Thùy Lâm (Theo WSJ, CNBC, Reuters)