Tỉnh Nam Định đã tập trung nhiều giải pháp, chính sách, chương trình để khuyến khích, tập trung nguồn lực và tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ

Trong những năm qua, ngành công nghiệp hỗ trợ của tỉnh Nam Định đã có bước tiến nhất định, song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Một trong những rào cản lớn nhất đối với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ là khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng.

Vì vậy, tỉnh đã có nhiều giải pháp, chính sách, chương trình để khuyến khích, tập trung nguồn lực và tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ theo Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ; Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18/1/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến 2025. 

Tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp công hỗ trợ Nam Định  第1张Nam Định có 2 ngành công nghiệp nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển là dệt may, cơ khí chế tạo.

Theo Nghị định số 111/2015/NĐ-CP, Nam Định có 2 ngành công nghiệp nằm trong danh mục có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển là ngành dệt may, cơ khí chế tạo và một số khâu trong ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô. 

Trong đó, đã có một số doanh nghiệp của tỉnh đầu tư sản xuất thành công các sản phẩm thuộc công nghiệp hỗ trợ (sợi, vải, chỉ và tơ tằm).

Tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp công hỗ trợ Nam Định  第2张 Sản xuất tại Công ty Dệt lụa Nam Định (ảnh:  Quỳnh Nga)

Một trong những ngành công nghiệp chủ lực khác của tỉnh cũng có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ là ngành cơ khí chế tạo ở các địa phương, như thành phố Nam Định có thế mạnh về các sản phẩm cơ khí gia công từ kim loại (dây lưới thép, thiết bị phục vụ các ngành điện, giao thông vận tải, xây dựng và sản phẩm cơ khí dân sinh) tại Cụm công nghiệp Hòa Xá. Huyện Vụ Bản có thế mạnh nghề rèn các loại nông cụ và sản phẩm phục vụ ngành lâm nghiệp tại các xã Quang Trung, Trung Thành; sản xuất dây diện...

Tuy vậy, số lượng các doanh nghiệp của tỉnh tham gia sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ phát triển ở dạng tự phát, manh mún, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Điển hình như lĩnh vực dệt may là công nghiệp chủ lực, có bề dày truyền thống, chiếm gần 40% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tỉnh, song phần lớn các doanh nghiệp trong ngành cũng chỉ tham gia ở các khâu ít lợi nhuận nhất trong chuỗi giá trị là gia công.

Một số ít doanh nghiệp ngành dệt may có tham gia sản xuất nguyên liệu nhưng mới chỉ tự chủ được khoảng 30% nguyên liệu, còn lại phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu tới 70% (thậm chí có tới 90% nguyên liệu nhập khẩu từ một thị trường duy nhất). 

Thực trạng trên dẫn đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh khó tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi của ngân hàng dành cho công nghiệp hỗ trợ do năng lực tài chính thấp, thiếu hoàn thiện về báo cáo tài chính, hóa đơn, công nghệ sản xuất lạc hậu; không có hoặc có ít tài sản bảo đảm...

Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thường rất lớn so với quy mô tài sản của doanh nghiệp, thường là trung, dài hạn để đầu tư máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất. Trong khi đó, chính sách tín dụng ưu đãi chỉ áp dụng cho nhu cầu vốn ngắn hạn, phạm vi ưu đãi hẹp. Chưa kể là rất ít doanh nghiệp được cấp chứng nhận thuộc đối tượng công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển nên nhiều doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ không “mặn mà” vay vốn. 

Tính đến hết quý I năm 2023, dư nợ cho vay công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Nam Định đạt 630,6 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn là 571 tỷ đồng; dư nợ cho vay trung, dài hạn là 59,6 tỷ đồng. Số lượng khách hàng lẫn các ngân hàng thương mại tham gia hỗ trợ về vốn đối với công nghiệp hỗ trợ quá ít so với tiềm năng đáng có. 

Xác định công nghiệp hỗ trợ là một trong những lĩnh vực cần ưu tiên bố trí vốn để phát triển, ngành ngân hàng tỉnh sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp tiền tệ, tín dụng nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Đồng thời, chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục hoàn thiện xây dựng quy trình thu thập, khai thác thông tin về đánh giá tín nhiệm, hoạt động của khách hàng để nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, qua đó tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Xây dựng các chương trình, gói tín dụng với lãi suất hợp lý cho doanh nghiệp, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Đơn giản hóa thủ tục hành chính để tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. 

Quỳnh Nga